Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về tính kháng TTS trên sâu, ruồi đục lá chưa nhiều, cho đến thời điểm này thì đã có một số công trình nghiên cứu trên các đối tượng như: sâu tơ, rầy nâu, bọ phấn và ruồi đục lá....
Trên đối tượng sâu tơ, năm 1967 các chuyên gia của FAO đã nhận định: Sâu tơ ở Việt Nam đã kháng cao với các TTS OP và Car như Dianizon, Malathion, Methomyl và Carbaryl [15].
Ở Quần thể Song Phương, theo tác giả Đặng Thị Thanh Mai (2002) đã kết luận rằng sâu tơ ở quần thể này đã kháng cao với loại thuốc Sherpar 25EC [5].
Nghiên cứu tính kháng TTS của bọ phấn ở cả hai địa điểm Vân Nội và Song Phương tác giả Nguyễn Đình Thông (2006) đã kết luận: Ấu trùng bọ phấn ở hai quần thể trên còn mẫn cảm với thuốc Padan 95SP, Selecron 500EC và giảm tính mẫn cảm với thuốc trừ sâu Sherpar 25EC [9]
thế giới côn trùng.
Trên đối tượng ruồi đục lá, một số công trình nghiên cứu như của TS Lê thị Kim Oanh, Nguyễn Thị Ngọc, Trần Phan Hữu cho rằng ruồi đục lá là đối tượng sâu hại nghiêm trọng thuộc khu vực đồng bằng Sông Hồng. Đây là loài sâu hại đa thực có phổ ký chủ rộng gây hại trên hầu hết trên các loại rau xanh và cây trồng màu.
[/i][/i]